Bên bờ sông côn

Đăng bởi Admin vào lúc 04-05-2018

Mượn tên Côn mà đặt cho sông, cổ nhân dụng ý cầu mong cho con cháu sanh trưởng trên mảnh đất đã sản sinh các vị hào kiệt Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Mai Xuân Thưởng v.v… mà dòng sông Côn nhuần thấm, có ngày trỗi dậy "quạt cánh bằng bay chín vạn tầng cao".

Về mặt địa lý, sông Côn là dòng sông lớn nhất của Bình Định, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, có độ cao 925 mét từ khối núi Ngọc Roo ở các tỉnh Kon Tum,  Gia  Lai  chảy  qua  Vĩnh  Thạnh  nơi  có  công trình  thủy  điện  Vĩnh  Sơn  quy  mô.  Sông  Côn  dài 171 km, lưu vực có diện tích lên đến gần ba cây số. Đoạn thượng nguồn có tên là Đắc Kron Bung, theo  hướng  đông  nam  chảy  qua  huyện  Tây  Sơn để rồi gặp các nhánh nhỏ bắt nguồn từ An Khê và Vân Canh tạo thành dòng lớn. Đoạn giữa ở huyện Tây Sơn có tên là sông Hà Giao. Sau đó tiếp tục chảy qua huyện An Nhơn và gặp một nhánh khác từ  hồ  Núi  Một  (Vân  Canh)  chảy  xuống.  Đoạn  hạ lưu  chia  thành  nhiều  nhánh,  đổ  ra  đầm  Thị  Nại, vịnh Quy Nhơn và có tên là sông Cái.

Hạ nguồn sông Côn - mùa hoa lộc vừng

Ngày  xưa   sông  Côn  được  gọi  là  sông  Tuy Viễn. Đến triều Đồng Khánh (1885-1889), sau khi đất  Tuy  Viễn  đã  chia  thành  ba  huyện  Bình  Khê, Tuy Viễn, Tuy Phước, thì sông lấy tên là Ba Huyện. Và sau khi huyện Tuy Viễn đã bị bãi bỏ để lấy đất cho  phủ  An  Nhơn,  và huyện  Tuy  Phước  đổi  làm Phủ, tên Ba Huyện không còn thích hợp nữa tên mới đổi tên là Côn Giang. Tên Côn Giang mới có từ triều Khải Định (1916-1925), Triều Duy Tân, khi soạn  Đại  Nam  Nhất  Thống  Chí  (1910)  còn  dùng tên Ba Huyện.

Tại  sao  đặt  tên  là  Côn  Giang?  Trên  thượng lưu  của  sông  có  con  suối  Kon  (phiên  âm  tiếng Thượng). Nhân đó có người bảo rằng: 

Khi  đi  vẽ  bản  đồ  Bình  Định,  người  Pháp  lấy tên suối mà gọi sông. Giọng Pháp đọc tiếng Kon lơ lớ ra tiếng Côn. Rồi các nhà viết sách địa dư cho trẻ em trường Pháp Việt học, dựa theo thầy Pháp mà viết là “sông Côn”, Từ xưa đến nay, những chữ ở nhà trường của Chánh Phủ dùng, thường được đa số nhân dân dùng theo. Vì vậy tên sông Côn lần lần được phổ biến và cuối cùng được thay thế cho tên sông Ba Huyện không còn “hợp thời”.

Giả thuyết này nghe cũng có lý lắm, và trường hợp  theo  giọng  đọc  của  người  Pháp  mà  đặt  tên cho sông núi Việt Nam, thường xảy ra lắm. Như Mũi Ba Làng mà đọc thành Cap Batagan, Vàm Cỏ đọc thành Ve Cô, núi Chớp Vàng đọc thành Tuop Vang, v.v… Thầy dạy thế, trò học thế. Lúc ra đời, người nào có để ý đến non sông Tổ Quốc thì mới thấy  sai,  mà  sửa  lại,  bằng  không  thì  cứ  như  thế mà truyền lại cho con cháu, lâu ngày thành phổ thông. Có ý kiến khác nói rằng:

Chữ  Côn  mượn  ở  Nam  Hoa  Kinh  của  Trang Tử:

"Biển  Bắc  có  loài  cá  tên  là  Côn.  Bề  lớn  của Côn  không  biết  mấy  nghìn  dặm.  Côn  hóa  thành loài  chim  tên  gọi  là  Bằng.  Lưng  của  Bằng  rộng không  biết  bao  nhiêu  dặm.  Vùng  vẫy  bay,  cánh như đám mây rũ ngang trời. Loài chim ấy khi biển động thì sắp dời sang biển Nam… Biển Nam là Ao Trời… Khi Bằng dời sang Biển Nam thì nước sóng sánh ba nghìn dặm. Liệng theo gió lốc mà lên chín vạn  dặm.  Đi  cứ  sáu  tháng  mới  nghỉ…".  Mượn  tên Côn mà đặt cho sông, cổ nhân dụng ý cầu mong cho  con  cháu  sanh  trưởng  trên  mảnh  đất  đã  sản sinh  các  vị  hào  kiệt  Nguyễn  Huệ,  Bùi  Thị  Xuân, Mai  Xuân  Thưởng  v.v…  mà  dòng  sông  Côn  nhuần thấm, có ngày trỗi dậy “quạt cánh bằng bay chín vạn tầng cao”. Nếu không được như thế, ít ra cũng đừng  làm  những  giống  cá  con  con  hễ  thấy  mồi ngon là đớp. Đó là hoài bão, là kỳ vọng.

Đua thuyền mùng năm Tết

Sông Côn phát nguyên tại đâu? Đại Nam Nhất Thống  Chí  chép  là  “từ  núi  Phong  Sơn”.  Sách  Địa Dư Mông Học tỉnh Bình Định của cụ Bùi Văn Lăng - một quyển sách giáo khoa từ trước đến giờ dùng ở các trường Tiểu Học trong tỉnh - chép rằng “Sông Côn  phát  nguyên  từ  núi  Kim  Điều  về  huyện  Bình Khê”.Đó là lấy những con suối ở gần dưới này mà nói.  Chứ  nếu  đi  lên  nữa  thì  chúng  ta  thấy  nguồn phát  tận  dãy  Trường  Sơn,  vùng  giáp  giới  ba  tỉnhQuảng  Ngãi,  Kontum,  Bình  Định.  Nơi  đó  các  con suối hợp lại, rồi chảy vào Nam, quanh co giữa các dãy Trường Sơn, vượt qua nhiều gành, nhiều thác, lướt gần 50 cây số thì đến Định Quang. Khúc này tục gọi là Suối Kon. Tuy hai bên bờ có nhiều khe nhỏ từ Tây chảy xuống, từ Đông chảy lên, nhưng nước  thường  không  được  nhiều  và  lòng  suối  có phần  hẹp.  Đến  Định  Quang,  suối  tiếp  nhận  nước Suối  Sem  từ  Tây  Bắc  chảy  xuống,  rồi  chạy  vào chừng  vài  cây  số  đến  Vĩnh  Thạnh  thì  tiếp  nhận thêm nước con suối từ Đông bắc chảy vào. 

Tại đây dòng nước quày xuống hướng Đông, đi chừng  hai  cây  số  đến  Vĩnh  Bình,  thì  lại  quẹo  vào Nam, chảy quanh co chừng mười, mười hai cây số đến Hữu Thuận, thì lại chảy ngược lên hướng Tây. Lên chừng vài cây số, đến Thượng Giang, thì gặp dòng Suối Cỏ từ Tây Bắc chảy vào.

Sông Côn - dưới chân núi chảy qua xã Tây Giang


Từ Định Quang xuống Thượng Giang tục gọi là sông Hà Giao hay Hà Rêu. Khúc sông này hẹp, lòng lại thường nổi đá từng đống. Thuyền bè lên xuống rất khó khăn. Tại giáp khẩu Suối Cỏ, dòng sông lại trở xuống Đông Nam. Đi chừng hai cây số đến Tả Giang thì gặp suối Ba La, từ Đồng Tre ở phía Tây Nam chảy ra. Từ giáp khẩu suối Ba La. Lòng sông mở  rộng,  và  theo  hướng  Đông  Nam,  chạy  chừng chín, mười cây số thì đến địa đầu Phú Phong. 

Bắt  đầu  từ  Hữu  Giang,  Tả  Giang  trở  xuống, sông mới chính thức gọi là Côn Giang. 

Trên khúc sông từ Tả Giang, Hữu Giang xuống Trinh  Tường,  đây  đó  nổi  lên  những  đống  đá  đen láng.  Đối  với  việc  lưu  thông  đó  là  những  chướng ngại vật. Nhưng đối với du khách thì đó là những món  “gia  vị”  có  thể  gọi  là  “nên  thơ”.  Mùa  lụt  thì những  đống  đá  ấy  bị  ngập,  không  trông  thấy, nhưng đến mùa nắng thì những khả ái như những hòn  non  bộ  trong  các  hồ  nước  trong  của  đám phong lưu, tài tử.

Truyền  rằng  xưa  kia  ông  Khổng  Lồ  thường ngồi trên những đống đá trong vùng, để câu. Hiện còn để dấu nơi hòn Đá Tượng. Hòn Đá tượng không phải ở trong sông, mà ở trong suối Ba La, gần sông, cách cầu Ba La chừng vài chục thước. Đây là một tảng đá cao lớn (mỗi chiều có đến 10 thước). Trên mặt có dấu hai bàn chân và có dấu mổng ngồi, to lớn. Các ông bà già cả quyết đó là chân và mổng ông Khổng Lồ ngồi câu. Những dấu Ông Khổng Lồ để lại trên các cụm đá khác trên sông đã bị nước "gụt  rửa"  hết.  Vì  có  chuyện  "Khổng  Lồ  ngồi  câu trên đá" nên khách làng thơ gọi là "Đá Khổng Lồ". Đá Khổng Lồ không thấy trên khúc sông từ Trinh Tường  đến  Phú  Phong.  Đến  địa  đầu  Phú  Phong, sông Côn tiếp nhận nước sông Đá Hàng.

Từ  nguồn  xuống  cho  đến  cuối  Trinh  Tường, ngoài những dòng suối đã kể, sông Côn tiếp nhận nhiều  suối  khe  khác  nữa.  Nhưng  các  phụ  lưu  ấy, phần nhiều đều khô cạn về mùa nắng không "giúp ích" cho sông được bao nhiêu. Chỉ có sông Đá Hàn là phụ lưu quan trọng. Sông Đá Hàn không dài lắm và có hai nguồn.

 Mặt nước trong như mặt gương

Một phát tại vùng Núi Bà thuộc An Nhơn, chảy từ Nam ra Bắc, rồi quành lên Tây, độ vài chục cây số,  thì  gặp  dòng  suối  Đồng  Hưu  thuộc  thôn  Phú Phong  quận  Bình  Khê  từ  hướng  Tây  chảy  xuống. Hai  suối  hợp  lại  chảy  lên  hướng  Tây  Bắc.  Lên  độ năm cây số thì gặp nguồn thứ hai, là suối Đồng Le từ phía Tây chảy xuống. Nguồn này chỉ bằng nửa nguồn trước (chừng 11, 12 cây số). Hai nguồn hợp lại thành sông Đá Hàng chảy ra sông Côn về hướng Đông Bắc. Từ chỗ giao chi của hai nguồn đến sông Côn,  bề  dài  của  sông  Đá  Hàn  không  trên  10  cây số. Lòng sông lắm nơi đá mọc lởm chởm, thác đổ bọt tung. 

Thôn  Trinh  Tường  nằm  ở  bờ  Tây.  Thôn  Phú Phong  nằm  ở  bờ  phía  Đông.  Cách  nơi  giao  thủy giữa sông Đá Hàng và sông Côn, chừng một cây số, có một dãy đá xanh nổi lên như một đập đá chạy từ  Phú  Phong  lên  Trinh  Tường.  Người  địa  phương gọi là dãy Đá Hàng, và con sông do đó mà mệnh danh. Thường thường dãy Đá Hàng bị ngập nước, sõng nhỏ, bè lớn, lên xuống dễ dàng. Nhưng đến mùa nắng thì đá bày ở nhiều chỗ, sõng bè không qua được.

Tại  dãy  Đá  Hàng  có  bến  lội.  Gần  bến  lội  có chợ  nhóm  vào  buổi  chiều,  tục  gọi  là  Chợ  Chiều, nằm  ở  địa  phận  thôn  Phú  Phong.  Bên  kia  sông, thuộc địa phận Trinh Tường lại có một xóm gọi là Đồng Lẫm. Tên gọi như thế vì nơi đó có đồng lúa trì và xưa kia nghĩa quân Cần Vương có cất lẫm chứa lúa nuôi quân. Bên lẫm có đồn để canh coi. Cho nên bến kia gọi là bến Đá Hàng khi thì gọi là Bến Đồn. Vì có bến có chợ, nên thời thái bình, Đá Hàng là nơi nhóm khách tứ phương, khách phong tao  cũng  thường  đến  du  ngoạn  và  có  gởi  lại  đôi vận phong lưu được nhiều người thưởng thức:


Khách song thơ với khách đài trang,
Chung bóng đêm xuân cảnh Đá Hàng.
Bãi thẳm hương trao làn gió nhẹ,
Dòng trong sóng lộng ánh trăng vàng.
Tình không đắm rượu say dường đã…
Hứng cũng vì thơ thú mãi càng…
Đồng Lẫm Chợ Chiều thiêm thiếp mộng,
Gà đâu vội vã… tiếng đưa sang!
                                               (Hương Sơn)


E mỗi ngày mai tóc bạc phơ
Đợi thuyền Tây Tử biết bao giờ?
Mượn tình mượn cảnh chơi cho thú,
Rằng tục rằng tiên nghĩ cũng khờ.
Bốn mặt non sông ba mặt khách,
Nửa lòng trăng gió một lòng thơ.
Rồi đây bến đá còn qua lại,
Nhìn nước nhìn mây chớ thẩn thờ..


Sông Đá Hàng cùng khúc sông từ địa đầu Phú Phong trở lên là hai nhánh của sông Côn. Sông Đá Hàng gọi là Tả Trạch tức nhánh Tả, khúc kia gọi là Hữu Trạch, tức nhánh Hữu. Nhánh Hữu từ Tây Bắc chảy xuống Đông Nam. Nhánh Tả từ Tây Nam chảy xuống Đông Bắc rồi hợp nhau lại chạy thẳng xuống Đông. 

Khi  xưa,  nhánh  Hữu  xuống  đến  cuối  thôn Hữu Giang, đầu thôn Phú Lạc, tại nơi cây Muồng, thì  quành  ra  phía  Bắc,  rồi  chuyển  xuống  Đông, dọc theo Phú Lạc, Kiên Mỹ, đến nữa Thuận Nghĩa lại quay vào Nam, tại xóm Soi để đi thẳng xuống Đông.

Còn  nhánh  Tả,  sau  khi  qua  khỏi  Đá  Hàng chừng  vài  ba  trăm  thước  thì  quẹo  xuống  Đông. Qua hết địa phận Phú Phong, Xuân Hòa, đến địa đầu An Xuân thì nhập cùng suối Đồng Sim, chảy ra sông Côn ở phía Bắc, cách nơi giao thủy chừng một  cây  số.  Đường  nước  cũ  của  hai  nhánh  sông hiện còn dấu tích, như Bàu Ấu, sông Lấp… ở Phú Lạc, soi rộc ở Thuận Nghĩa, bàu Bà Lặng, các bàu ở xóm Phú Văn tại Phú Phong… Chính vua Thái Đức Nguyễn Nhạc đã sửa đổi vị trí hai nhánh sông vào khoảng  Canh  Tuất,  Tân  Hợi  (1790-1791).  Tại  sao lại có sự sửa đổi như thế?

Dòng sông chảy qua Phú Phong

Truyền thuyết kể rằng: Chiến thắng quân Mãn Thanh của vua Quang Trung tháng giêng năm Kỷ Dậu  (1789)  làm  chấn  động  cả  Trung  Quốc,  Ông Thầy Địa đã tìm ra long huyệt tại Hoành Sơn đoán biết  rằng  hai  anh  em  họ  Nguyễn  đã  cướp  phước của mình, căm giận muốn trả thù, nhưng tuổi già sức yếu, chưa tìm được cách sang Việt Nam. May thay, vua Càn Long lúc bấy giờ lại đang tìm người giỏi thuật phong thủy cho sang Việt Nam để tiêu diệt  vượng  khí.  Thầy  Địa  Tàu  bèn  phụng  mạng cùng người con trai dùng phương tiện của nhà vua mà  đi.  Hai  cha  con  đến  thẳng  Qui  Nhơn.  Sau  khi biết  đích  xác  là  nhà  Tây  Sơn  dựng  được  nghiệp cả là do long huyệt của mình tìm ra, thầy Địa Tàu lánh mặt, sai con vào chầu vua Thái Đức.

Vua Thái Đức tiếp đãi người con trai Thầy Địa rất  trọng  hậu,  mặc  dù  không  biết  rõ  tung  tích. Khách  khen  cuộc  đất  ở  Hoành  Sơn,  nhưng  tiếc rằng hai nhánh sông không ôm chặt lấy địa cuộc, sợ sinh khí không vượng được lâu dài. Đoạn tìm lời mê hoặc và khuyên nhà vua “cải tạo thiên nhiên”. Nhà  vua  nghe  theo,  cho  đào  nhánh  Hữu  từ  Cây Muồng thẳng xuống Đông Nam, chia đôi Hạnh Lâm và  Chơn  Tự,  và  đào  nhánh  Tả  từ  Đá  Hàng  thẳng ra Đông Bắc, giáp với nhánh Hữu mới đào. Hoành Sơn ngó ngay xuống chỗ giao thủy của hai nhánh, phong cảnh trông đẹp hơn trước, nhưng long mạch bị trọng thương!

Vì vậy, công trình cải tạo thiên nhiên của vua Thái  Đức  hoàn  thành  chưa  được  bao  lâu  thì  vua Quang  Trung  băng  hà!  Nhà  Tây  Sơn  lần  lần  suy nhược…

Đó là chuyện xưa. 

Trở  về  với  hiện  tại  thì  từ  địa  đầu  Phú  Phong trở  xuống,  nhờ  sông  Đá  Hàng  lòng  sông  Côn  mở rộng thêm. Khúc sông rộng nhất và sâu nhất là từ Phú Phong xuống đến An Thái (địa đầu An Nhơn), dài chừng 14 cây số. Quang cảnh trên khúc sông này rất ngoạn mục. Có thể nói đó là khúc sông đẹp nhất trên dòng sông Côn. Tám bức Tiêu Tương của Tống  Địch  đời  Tống  bên  Trung  Quốc  đều  đã  ‘thể hiện” nơi đây:

Đứng nơi bến Kiên Mỹ nhìn sang Chợ Cây Cốc nằm  trên  Gò  Ngựa  thôn  Phú  Phong,  lúc  mặt  trời gác núi, một họa sĩ đất Bình Khê là Cố Mai Chi đã khen  rằng  linh  động  hơn  cảnh  "Sơn  thị  tình  lam" của họ Tống.

Hoàng hôn trên sông Côn

Nhìn  bãi  cát  trắng  phau  phau  ở  Miễu  Ông, thuộc thôn Xuân Hòa, hoặc bãi Cà Đáo thuộc thôn Dõng Hòa, buổi tạnh trời ngàn cò bay lượn, thì so với bức “Bình sa lạc nhạn” ai dám bảo rằng thua kém. Đi đò qua ngang Vĩnh Lộc, nghe chuông Nện Sương trong bóng cây xanh tỏa khói, thì dám tin rằng cảnh “Yên tự vãn chung” ở Tiêu Tương không thể hơn. Lại thêm những soi dầu quằng nhánh lục của thôn Thuận Nghĩa, những bãi mía lả lướt màu xanh của các thôn Vĩnh Lộc, An Chánh, An Vinh…, bên Hữu Ngạn, những cánh đồng lúa mênh mông hết  xanh  mởn  lại  trở  vàng  hươm  của  các  thôn Xuân Hòa, An Xuân, Lai Nghi, Thú Thiện… ở bên Tả Ngạn, và những hàng tre nghiêng bóng xanh trên mặt  nước  xanh,  những  cây  đa  hình  thù  cổ  quái, tàn cao vướng mây, chạy dọc theo hai bên bờ, làm cho khách đi trên sông Côn luôn tìm thấy cảnh sắc mới, hương vị mới.

Ngày  nay,  những  dấu  ấn  huyền  thoại  đôi  bờ sông Kôn đã được đánh thức qua tiểu thuyết lịch sử “Sông Côn mùa lũ” của người con Tây Sơn: nhà văn  Nguyễn  Mộng  Giác.  Hãng  phim  Truyền  hình TP.HCM (TFS) dựng thành phim dài tập.

Bên cạnh đó, sự kiện Festival Tây Sơn– Bình Định,  lễ  rước  Hoàng  đế  Quang  Trung  nhập  điện xuất  phát  từ  bến  Trường  Trầu  cùng  với  đêm  hoa đăng trên đầm Thị Nại đã đưa lòng người về một thời kỳ lịch sử với niềm tự hào thiêng liêng không chỉ của riêng mảnh đất võ anh hùng.

Nguồn: Người Tây Sơn 2011


Chia sẻ với bạn bè

Bình luận: