Bút núi nghiên sông

Đăng bởi Admin vào lúc 04-05-2018

Các tác phẩm võ thuật của Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân không dừng lại ở đó. Nhưng đến nay, chỉ cần xem lại các truyền nhân hiện thực hóa một phần trong sự nghiệp trước tác võ thuật của đôi vợ chồng kiệt xuất này, cũng thấy được tinh hoa của võ thuật Bình Định.

Những ngày đầu xuân, tôi hay lân la về quê hương Tây Sơn tam kiệt, có lúc ngồi dưới vạt cỏ cào cào châu chấu để xem các cuộc tỉ thí trên võ đài, có khi ghé cửa một võ sư danh tiếng dự lễ giỗ tổ trang nghiêm, đôi  hồi  lội  sông  trèo  núi  về  các  làng  Banar Kriêm miền Tây Sơn thượng đạo, vít những cần rượu trong trăng để uống thêm những nỗi niềm lịch sử bản địa. Nơi đây, họ gọi con hổ là 'bok kla pơhum, chim phượng hoàng là sem kring, con ó là klang, cá sấu là bia hong, cá tràu là ka lơpông,  con  bò  rừng  là  lơmo  bri,  con  rắn  cạp nong là 'bih strang ruôih, rắn lục là 'bih plong, rắn lửa là 'bih unh, rắn hổ mang là ‘bitul, con gấu  là  chơgơu,  con  mèo  rừng  là  meu  bri,  con trâu là kơpô, con trăn là klăn, con khỉ là dok, khỉ độc  là  dok  kuang,  khỉ  đuôi  dài  dok  tiêng,  khỉ đuôi ngắn là dok 'lui, con hoẵng là jil, con ngựa là aseh… Tôi hơi tỉ mẩn tìm hiểu tên các con vật theo tiếng đồng bào dân tộc thiểu số để tìm một mối liên hệ đôi khi mơ hồ với các động tác trong  võ  thuật  Bình  Định.  Những  biểu  tượng bản  địa  từ  gấu  beo  trăn  rắn  đến  cò  hạc  chim chóc  đều  trở  thành  bản  sắc  sống  động  trong nhiều bài võ cổ truyền đất võ Bình Định, như Long quyền, Xà quyền, Phụng quyền, Hùng Kê quyền,  Hạc  quyền,  Bạch  điểu,  Ngọc  ngư  quá hải, Thiên ngưu quyền, Hầu côn, Hổ quyền … hoặc tổng hợp động tác của tứ linh Long Lân Quy Phụng trong bài quyền Song đao phá thạch chẳng hạn.

Tôi  hiểu,  ý  nghĩa  tượng  trưng  của  hổ  và phượng hoàng trong đời sống văn hóa Á Đông có những chiều kích thật hoành tráng. Nhưng tôi vẫn khôn nguôi so sánh với con hổ thật và chim phượng hoàng thật ở vùng rừng núi Tây Sơn, trong mối liên hệ diệu vợi của những hằng số văn hóa bốn phương. Đây là vùng "ác địa", chốn phên giậu thời mở cõi. Lẽ sống và đạo làm người trong những thế kỷ ấy, vẫn là những giọthồng  cầu  luân  chuyển  trong  cơ  thể  con  Rồng cháu Tiên, nhưng đã rời xa những khuôn vàng thước ngọc của xã hội cổ truyền, hội tụ và kết tinh, giao lưu và lan tỏa trên một bình diện mới, cấp độ mới.

Ngôn ngữ Hổ
Theo thông lệ xưa, người ta thường lấy hai linh vật là rồng và hổ để diễn đạt về sông núi kinh đô hoặc nơi phát tích đế vương và đất Tây Sơn cũng liệt hạng đại địa, có cái thế "long bàn hổ phục". Hổ xuất hiện khá đậm đặc trong cốt cách  võ  lâm,  danh  hiệu  võ  lâm,  giai  thoại  võ lâm. Biểu tượng hổ có ngôn ngữ đặc trưng giữa đời  sống  lịch  sử  văn  hóa  xứ  sở  này.  Uy  danh con  hổ  vang  vọng  trong  "Hổ  quyền",  "Hắc  hổ du sơn", "Ba chân hổ", "Nhị hổ mai phục quyền", "Thái hổ sơn", "Hổ tầm dương", "Long hổ hội", "Lão hổ quyền", "Mãnh hổ trường quyền", "Lão hổ quy sơn"…Tây Sơn thất hổ tướng là một mỹ từ để chỉ bảy dũng tướng rường cột của vương triều: Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng,  Nguyễn  Văn  Lộc.  Đặc  biệt,  ở  lai  lịch thiếu phó Trần Quang Diệu, có gắn rất nhiều với con hổ. Ông học võ với một chân sư sống giữa rừng cao nước độc đầy hổ báo nguồn Kim Sơn. Ông đang đánh nhau với một con hổ dữ giữa rừng núi Thuận Ninh, đầm đìa máu me thì bất ngờ Bùi Thị Xuân bắt gặp và giải cứu. Cuộc gặp gỡ bi hùng này chính là điểm xuất phát của mối tình tuyệt đẹp trong triều đại Tây Sơn và thành biểu tượng rực rỡ trong những những lứa đôi anh hùng lưu danh thiên cổ.

Lần theo lịch sử đất võ xưa, tôi chú ý đến hai bài võ trứ danh tương truyền tác giả là hai dũng tướng nhà Tây Sơn, bài thứ nhất là Lôi Phong Tùy  Hình  Kiếm  của  thiếu  phó  Trần  Quang Diệu, bài thứ hai là Song Phượng Kiếm của nữ đô đốc Bùi Thị Xuân. Theo như ghi chép được lưu truyền trong quyển Tây Sơn bí kíp mộ hồn thao,  bài  Lôi  phong  tùy  hình  kiếm,  bằng  chữ Hán, dịch nghĩa: "Tuốt gươm ra là gió thổi mịt mù-  Rừng  mùa  xuân  hoa  lá  rụng  xác  xơ-  Hổ hét, chim kêu, trời chấn động- Gió đùa, sấm nổ, đất rung rinh- Lìa cây gươm lên mây về chầu Thượng  đế-  Báo  lưỡi  long  đao  xuống  viếng điện Long quân- Sao ngày kia phải ra đi trước chớp- Đuổi theo bắt búa của thiên lôi- Dặn dò đã nhiều phen kẻo muộn- Để cho ta sớm rảnh nợ tang bồng". Giai thoại làng võ cho biết một đêm nọ khi võ sinh đang luyện tập ngoài trời, Trần Quang Diệu đưa vợ xem bài kiếm có tầm sát phạt cực cao này, nhờ vợ góp ý. Bùi Thị Xuân khẳng khái khen đoạn đầu hùng dũng sắc bén, có cái uy phong lẫm liệt như chúa sơn lâm tung hoành chấn động đất trời, tuy nhiên hai câu cuối có vẻ chưa tương hợp với vẻ hô phong hoán vũ ở phần trên. Trần Quang Diệu giải thích cho vợ đây là sự kết hợp giữa cương và nhu trong võ nghiệp, tuy mới nghe qua có thể là nhu nhưng dồn  nén  của  nhiều  đường  kiếm  linh  hoạt  từ trên dồn xuống, tầm lia gươm rất biến hóa, tuy nhẹ nhàng mà cực kỳ lợi hại. Bài kiếm sau khi công  phu  tập  đi  tập  lại,  "biên  tập"  bằng  cách lượt  bỏ  những  thao  không  cần  thiết,  bổ  sung những thao cần thiết, trở thành một bài kiếm khét tiếng gồm 72 hành pháp liên thao vang dội trong xứ sở thương đao cung kiếm này. Bài này Trần Quang Diệu hoàn tất vào ngày 21-3 năm Kỷ Sửu (1769).

Con gái BĐ biểu diễn song phượng kiếm - Ảnh Hoàng Tuấn

Thi pháp Phượng Hoàng
Năm  sau,  20-12  Canh  Dần  (1770),  Bùi  Thị Xuân hoàn chỉnh bài Song phượng kiếm. Tương truyền trên bãi huấn luyện đội tượng binh, hôm nào bà cũng nhìn thấy một đôi chim rực rỡ bay lượn dõi theo và chúng từ giã khi kết thúc buổi tập. Một đêm bà nằm mộng thấy từ trên núi cao, đôi phượng hoàng bay về, trên miệng mỗi con ngậm một thanh kiếm sáng quắc. Đôi phượng lượn vòng nhiều lần rồi nhả kiếm trước mặt, ý giành cho bà. Bà xúc động nhận báu kiếm, lạy trời  đất  thánh  thần  rồi  tỉnh  giấc  trong  niềm hoan hỉ cao minh. Sau đó, các buổi chiều cùng chiến  hữu  ngoạn  cảnh  rừng  nghe  chim  bay lượn, từ lực hấp dẫn mãnh liệt của đôi phượng hoàng trong mơ đã biến thành niềm say mê đôi phượng hoàng thật trong cánh rừng Tây Sơn hạ đạo.  Bà  rút  gươm  múa  theo  chúng.  Một  đêm không  ngủ  được,  thần  trí  tinh  anh  lạ  thường, bà  đem  nghiên  bút  hòa  vận,  trút  nguồn  cảm xúc thánh thần trong bài võ Song phượng kiếm: "Lợi kiếm mộ hồn thương- Vân phi hà nguyệt tẩu- Phượng dực đáo lâm tiền- Tư quý bảo Nam bang- Đông sương lai quan ải- Hậu nhựt kiếm loan  phi-  Tây  thiên  hà  kiếm  khách-  Phượng diệc  đáo  sơn  Bồng".  (Hồn  thương  theo  kiếm báu- Mây trắng chạy nào quen- Bìa rừng chim phượng múa- Bốn mùa giữ nước Nam- Đông về  sương  quan  ải-  Chiều  lại  thấy  chim  loan- Trời  tây  nào  kiếm  khách-  Cánh  phượng  đến non Bồng). Bà truyền dạy trong các chị em phụ nữ, và bốn trong số đó cùng bà trở thành những kiếm  khách  thần  sầu  mà  lịch  sử  ghi  nhận  là Tây Sơn ngũ phụng thư: Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn (vợ Nguyễn Huệ), Trần Thị Lan (vợ Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết), Nguyễn Thị Dung (vợ tướng Trương Đăng Đồ), Huỳnh Thị Cúc.Thực ra, trong võ thuật, một võ sư phải đạt đến  trình  độ  điêu  luyện,  hết  sức  phong  phú và linh hoạt. Trong kiếm thuật cổ truyền Bình Định,  giới  võ  lâm  hay  nhắc  bốn  chữ,  nhanh, nghĩa  là  độ  gió  bão  của  phép  chém;  mạnh, nghĩa  là  độ  mãnh  hổ  thôi  sơn  của  phép  đâm; chặt, nghĩa là độ thủ kín, không cho đối phương chạm vào cơ thể mình; sát, nghĩa là đòn thế bí truyền  hạ  gục  đối  phương.  Kiếm  pháp  là  vậy, nhưng  đối  với  bậc  kiếm  sư  khi  xuất  chiêu  thì thiên biến vạn hóa. Bài Song Phượng kiếm gồm 64 hành pháp liên thao, tương ứng với 8 thao trên mỗi câu và Bùi Thị Xuân cũng như một số môn nhân đã đạt đến độ tinh luyện, quỷ khốc thần sầu.

Các tác phẩm võ thuật của Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân không dừng lại ở đó. Nhưng đến nay, chỉ cần xem lại các truyền nhân hiện thực hóa một phần trong sự nghiệp trước tác võ thuật của đôi vợ chồng kiệt xuất này, cũng thấy được tinh hoa của võ thuật Bình Định. Cái công giúp rập cho một vương triều không phải nhỏ. Nhưng riêng về mặt cốt cách sống, thái độ sống, danh dự con nhà tướng, qua hành trạng lịch sử đã cho thấy đôi vợ chồng này đã ở mức thượng thừa và chính ở góc độ này, nó góp trăng sao vào đêm trường hậu Tây Sơn, quanh cuộc trả thù hèn mạt của lực lượng đối địch.

Ngoài cụm từ quen thuộc cốt cách bậc anh hùng, tâm thế đấng trượng phu, có lẽ cũng khó tìm những ngôn ngữ bình dị hơn để diễn đạt về đôi vợ chồng vinh quang tột độ và bi thương tột đỉnh này.

Cảo thơm làng võ
Lịch sử bảo ta rằng, khí thiêng sông núi và hoàn cảnh xã hội của thời đại đã tạo tác nên hai bậc kiếm sư mà thù trong giặc ngoài nghe nhắc tên là rợn tóc gáy, đất đá cỏ cây cũng nghiêng mình thán phục. Trời đã rót xuống những giọt rượu  mê  hồn  trong  kiếm  pháp  của  họ,  tương tự như trong làng văn, chất men của cao xanh giành riêng cho các đại thi hào. Điều này không phải mong mà có, muốn mà được. cơ duyên của trời đất không hề đặc ân quá tay cho các môn nhân làng võ cũng như nghiệp văn số phận của những  thiên  tài.  Cơ  trời  đã  không  duy  trì  sự bền vững của nhà Tây Sơn sau cái chết đột ngột của Quang Trung- Nguyễn Huệ và người kế tục chưa  đủ  phong  vận  của  một  minh  quân  nên các văn thần võ tướng lừng danh của triều đại kết cục phải lâm cảnh khốn cùng. Nhưng hình như trời đất quá ư khe khắt, muốn tạo ra những nghịch  cảnh  ráo  riết  để  bới  tìm  giữa  tro  than khốc liệt bức chân dung lộng lẫy trọn vẹn của bậc chính nhân phanh thây cho chính đạo. Rất khó hình dung một phong trào nông dân Tây Sơn oanh liệt cũng như rất khó hình dung một truyền thống tinh hoa khí phách của võ thuật gắn với vận mệnh quốc gia mà thiếu đi gương mặt của đôi vợ chồng này.

Suốt hơn một thế kỷ từ sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, những từ ngữ rác rưởi như "thảo khấu", "ngụy tặc" và những lời lẽ vu khống, xuyên tạc đầy rẫy trong các sử sách được lưu hành chính thống,  giành  cho  Tam  kiệt  cũng  như  những tướng lĩnh tài ba của họ bộc lộ những cạn hẹp của trần ai, nâng sự tàn khốc vào nội hàm cái giá mà mỗi thiên tài phải trả. Tuy nhiên, tấm lòng của sông núi và nhân dân muôn đời có quy luật riêng của nó. Những di sản võ thuật của họ vẫn được lưu giữ bằng cách trao truyền của mạch suối ngầm trong gan ruột đất đai, tưới tắm cho cội rễ góp vào sự nảy lộc đâm chồi của rừng võ. Mỗi vương triều có thể có kẻ thù riêng nhưng sự cao thượng của đời sống vốn không có đối thủ. Thời gian đã minh chứng điều đó. Tên tuổi Quang Trung Nguyễn Huệ và những rường cột của vương triều Tây Sơn, vẫn hiện ra trong khói nhang chốn dân gian, trong ký ức lẫm liệt của những chủ soái và môn sinh làng võ thế hệ sau, dù thời đoạn truy bức và cấm kỵ không phải là ngắn ngủi. Ngay như đến cuối thế kỷ XIX, khi buộc tội anh hùng Mai Xuân Thưởng, Bình Tây đại nguyên soái trong phong trào Cần Vương chống Pháp, người ta còn luận về mối liên hệ họ ngoại Tây Sơn nên khép tội rằng "dương vị Hàm Nghi khởi nghĩa, âm vị ngụy Nhạc phục thù".  "Sĩ  khả  lục  bất  khả  nhục",  câu  ấy  tương ứng với cuộc hành thế của Bùi Thị Xuân- Trần Quang  Diệu.  Về  phương  diện  triều  đại,  họ  là những vị chỉ huy uy quyến dưới trướng Quang Trung-  Nguyễn  Huệ  và  còn  tung  hoành  thêm mười năm nữa bảo vệ hoàng triều ấu chúa sau khi tiên đế băng hà. Uy quyền làng võ của họ là uy quyền của bậc chân sư khi họ tại thế và uy  quyền  của  thần  tích  khi  họ  đã rời  cõi  trần thế. Chín bức tượng dát vàng trong điện thờ Tây Sơn tam kiệt hôm nay gồm Thái Đức Nguyễn Nhạc, Quang Trung Nguyễn Huệ, Đông Định Vương  Nguyễn  Lữ,  Binh  bộ  thượng  thư  Ngô Thì Nhậm, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ, Đại tư mã Ngô Văn Sở, Đại tư đồ Võ Văn Dũng, và vợ chồng Đại đô đốc Bùi Thị Xuân, Thiếu phó Trần Quang Diệu đã phần nào phản ánh lên điều đó. Ngay  trong  thời  đoạn  "cấm  kỵ",  áng  thơ  Nôm "Cân quắc anh hùng truyện" của danh sĩ Bình Định  Nguyễn  Bá  Huân  đã  mô  tả  rất  kỹ  hành trạng và công nghiệp của đôi vợ chồng lẫy lừng này và lưu truyền trong những tâm hồn ưu thời mẫn thế.

Có thể dùng chính những trước tác võ thuật của đôi vợ chồng Bùi Thị Xuân - Trần Quang Diệu để diễn đạt rằng cuộc đời họ như một bộ sử thi được viết bằng ngôn ngữ Hổ và thi pháp Phượng Hoàng. Đời sống bi hùng trên lưng voi mình  ngựa,  với  giáp  trụ  kiếm  cung,  với  khói lửa trận mạc, với phong ba trần thế tưởng như không còn sức chịu đựng nào lớn hơn khi đôi vai bậc kiếm sư đã quyết đặt lên một gánh sông núi cương thường. Thời gian có thể làm già đi nhiều thứ, riêng tình yêu và sự cao thượng mãi còn lưu giữ sức thanh xuân vĩnh cửu.

Nguồn: Người Tây Sơn 2012


Chia sẻ với bạn bè

Bình luận: