Võ học tây sơn tỏa sáng muôn phương

Đăng bởi Admin vào lúc 04-05-2018

Riêng vùng đất “Tây Sơn trung đạo”, trong đó có huyện Tây Sơn ngày nay, không chỉ là trung tâm của cuộc  đại  hội  tụ lịch sử, là vùng  đất  “Địa linh  nhân  kiệt”,  mà  còn  là  “chiếc  nôi”  của  võ  cổ truyền Bình Định

Theo  sách  “Đại  Nam  nhất  thống  chí”: Vùng đất Bình Định (BĐ) xưa có tên gọi là Việt – Thường – Thị. Từ những năm  đầu  thế  kỷ  thứ  X  đến  khoảng giữa thế kỷ thứ XI, địa danh này mang tên Vijaya, thuộc Vương quốc Chămpa cổ (Kinh đô là Thành Đồ Bàn hay còn gọi Chà Bàn). Năm 1471, vua Lê Thánh Tông mở rộng nước Đại Việt về phía Nam, lấy núi Thạch Bi (khu vực đỉnh đèo Cù Mông hiện nay) làm ranh giới. Trong suốt 20 năm đầu (1471 – 1490), nhà Lê chỉ cử các thổ quan là người địa phương  cai  quản  và  đến  khoảng  đầu  năm  1491 mới tiến hành phân chia địa giới, hình thành bản đồ hành chính và đặt tên vùng đất mới này là Phủ Hoài Nhơn (hay còn gọi Hoài Nhân), gồm 3 Huyện: Bồng  Sơn  (7  Tổng,  32  Xã),  Phù  Ly  (6  Tổng,  60 Xã), Tuy Viễn (6 Tổng, …). Đến năm 1602, đổi tên thành  Phủ  Qui Nhơn,  thuộc  Dinh  Quảng  Nam  và cuối cùng là Tỉnh Bình Định tồn tại cho đến ngày nay.

Biểu diễn võ thuật trong Festival Quốc tế võ thuật Bình Định 2010

Sau  khi  thị  sát  vùng  đất  “Hưng  Vương”  này, vua Lê Thánh Tông tiên đoán: “Với thế đất, thế núi, thế sông, thế biển hợp thành thế “Hùng Long yểm địa”. Rồi đây sẽ xuất hiện bậc đế vương, anh hùng cái  thế  làm  nên  nghiệp  lớn”.  Sau  này,  thầy  giáo Trương Văn Hiến, một đại minh chủ, văn, võ kinh bang (người Huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, cùng quê với Tổ tiên Tây Sơn tam kiệt) vào ẩn cư ở làng Thắng  Công  (giáp  huyện  Tây  Sơn),  trong  những lần truyền dạy binh pháp, võ lược cho Nguyễn Huệ cũng có lời “sấm” tương tự: “Con là người Tây Sơn, có  chân  mạng  Đế  vương,  hãy  cố  lên  mai  này  sẽ nên nghiệp lớn”.

Theo sách” Phủ biên tạp lục: "Xưa kia địa hình nơi đây cực kỳ hiểm trở, núi non trùng điệp (Phía Bắc, phía Nam, phía Tây đều là đèo cao sừng sững,  rừng  thiêng,  nước  độc,  thú  dữ,  cướp  bóc hoành  hành,  còn  phía  Đông  là  mênh  mông  biển cả).  Mặt  khác  còn  phải  thường  trực  đối  mặt  với quân  Chămpa  từ  bên  kia  dãy  núi  Thạch  Bi  tràn sang quấy nhiễu, nên nhà Lê phải cùng lúc đưa các võ tướng, võ quan thượng đẳng võ công, các chiến binh thiện chiến, võ nghệ cao cường vào trấn giữ, đồng thời khuyến khích những gia đình, dòng tộc gan dạ, giỏi võ từ “Đàng Ngoài” vào khai sơn, phá thạch, dựng xây hương trang, làng mạc, Bình Định lâu dài, bền vững cùng với người bản địa. Sau đó còn có cả những anh hùng, hào kiệt, võ công tuyệt luân, đầy khí phách, nhưng do bất mãn chế độ nhà Lê cũng lần lượt đến đây ẩn cư, chờ thời… 

Chính cuộc đại hội tụ lịch sử, như thể “cơ duyên Thiên định” của phần lớn các bậc kỳ tài xuất chúng, văn, võ kinh bang tế thế, tiêu biểu cho các dòng võ, trường phái võ, hệ phái võ, môn phái võ mang hình thái riêng của nhiều vùng, miền trong cả  nước,  cùng  những  tinh  hoa  văn  hoá  độc  đáo, các  loại  hình  nghệ  thuật  phong  phú,  đa  dạng,  đa sắc màu, đã góp phần kiến tạo nên diện mạo, thần thái,  tư  chất  của  con  người  Bình  Định,  như  sách “Đại  Nam  nhất  thống  chí”  đã  nhận  xét:  “  Người Bình  Định  tính  tình  trầm  tĩnh,  gan  dạ,  thích  làm việc  nghĩa.  Người  học  thức  phần  nhiều  nho  nhã, trung  hậu.  Đồ  mặc,  đồ  dùng  giản  dị,  mộc  mạc, không  ưa  văn  hoa.  Ngày  rảnh  việc  hay  bày  hát Tuồng, múa Võ”

 Biểu diễn binh khí trong Festival Quốc tế võ thuật Bình Định 2010

Đặc biệt kể từ khi nhà Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa (những năm giữa thế kỷ XVIII) dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của người anh hùng áo vải, Nguyễn Huệ,  vùng  đất  Bình  Định  đã  bước  sang  trang  sử mới, phát triển trên nhiều lĩnh vực: Quân sự, kinh tế, văn hoá, giáo dục, ngoại giao… Đặc biệt, trong lĩnh  vực  võ  học,  đã  được  nâng  lên  hàng  “Quốc võ”, trong đó nhà Tây Sơn đã cho nghiên cứu, kế thừa,  đúc  kết  và  nâng  tầm  võ  cổ  truyền  dân  tộc lên thành hệ thống võ học tương đối hoàn chỉnh, với cả một kho tàng đồ sộ, bao gồm: võ lý, võ lễ, võ  đạo,  võ  thuật,  võ  y,  võ  nhạc…  theo  một  chỉnh thể liên hoàn, thống nhất, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến  phức  tạp,  thích  ứng  với  mọi  điều  kiện địa lý, địa hình, địa vật (đánh trên rừng, núi, trên chiến thuyền, trên lưng voi, lưng ngựa, dưới đầm lầy,  sông  nước…)  theo  phương  châm:  “lấy  ít  địch nhiều, lấy nhỏ chống lớn, lấy yếu đánh mạnh, lấy nhu  thắng  cương,  lấy  cường  phá  nhược…”.  Riêng chính sách “Tịnh vi dân, động vi binh” được các sử gia xem như một “thần lực” góp phần “cải tạo” nòi giống hùng cường, sẵn sàng ngăn chặn ngoại xâm, bảo an vững chắc bờ cõi. Chính sách này đã nhanh chóng khích lệ người dân ra sức luyện tập võ nghệ, sử dụng thành thạo binh khí, để khi thanh bình thì mọi người đều có sức lực tráng kiện, võ nghệ cao siêu, bảo vệ bản làng,lao động, sản xuất, còn khi có hoạ ngoại xâm thì muôn người như một nhất tề đứng lên giết giặc, lập công.

Binh khí võ thuất thời Tây Sơn

Nhờ các chính sách hợp lòng dân, nhất là chính sách “Chiêu hiền đãi sĩ”, nên sau khi rời khỏi chiến khu “An Khê Trường” (vùng Tây Sơn thượng đạo – nay thuộc tỉnh Gia Lai), nhà Tây Sơn đã chọn vùng  đất  Tây  Sơn  “địa  linh  nhân  kiệt”,  hùng  cứ vững bền, “cơ trời đã định” (Sự tích Nguyễn Nhạc được “Ngọc Hoàng ban ấn, kiếm” ở núi Trưng Sơn – nằm phía Tây huyện Tây Sơn ngày nay) lập “Đại bản doanh” để tụ nghĩa quần hùng, chiêu mộ anh tài  hào  kiệt  văn  võ  tuyệt  luân  khắp  nơi  trong  cả nước,  phất  cờ  khởi  nghĩa. Từ  đây,  vùng  đất  Tây Sơn  không  chỉ  là  “Trung  tâm  đầu  não”  của  cuộc khởi nghĩa long trời, lở đất, đập tan ách thống trị bạo tàn và là nơi sản sinh các tinh hoa đất nước, các võ quan, võ tướng kỳ tài, mà còn là nơi đại hội tụ của phần lớn các chính nhân quân tử, anh hùng, nghĩa  sĩ  văn  võ  thượng  thặng  khắp  nơi  trong  cả nước, tiêu biểu: Trương Văn Hiến (Thầy giáo Hiến), Đinh Văn Nhưng (Chảng chảng ngang Thiên), Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Phạm Công Trị, Nguyễn Trung Như, Cao Tắc Tựu, Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, La Xuân Kiều, Lê Chất, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Tăng Doãn Văn (Tăng Bạt Hổ), Võ Văn Nhậm, Mã Vĩnh Thắng, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh, Võ Văn Cao, Võ Văn Doãn (Chàng Lía), Trần  Thị  Quyền…Đúng  như  sách  “Nhà  Tây  Sơn” của Quách Tấn đã mô tả: “ Đất Tây Sơn giờ đây đã  gần  như  một  nước  thu  nhỏ,  với  đủ  đầy  các danh nhân kiệt hiệt trên nhiều lĩnh vực, có cùng chung chí hướng: Đánh đổ cường quyền, áp bức, bất  công,  đem  lại  yên  bình,  thịnh  trị  cho  muôn dân, dựng xây cơ đồ xán lạn” Chính cuộc “đại hội tụ” có một không hai này,  không  chỉ  lập  nên  những  kỳ  tích  oai  hùng, chiến công vĩ đại của phong trào khởi nghĩa nông dân  Tây  Sơn,  góp  phần  khai  sáng  vùng  đất  võ Bình Định uy danh sau này, mà còn dệt nên bao huyền thoại, sự tích lẫy lừng về lịch sử võ học, về các danh nhân văn hoá, về khí phách của các anh hùng, hào kiệt và các bí quyết võ công siêu việt của con người Miền đất võ. Có lẽ vì vậy mà người đời nay thường mệnh danh vùng đất này là “Đất võ, Trời văn”. Đất của Tây Sơn “tam kiệt” (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ), Tây Sơn “Thất hổ tướng” (Anh hùng Đại võ công Võ Văn Dũng, Trần Quang  Diệu,  Võ  Đình  Tú,  Nguyễn  Văn  Tuyết,  Lý Văn Bưu, Nguyễn Văn Lộc, Lê Văn Hưng), Tây Sơn “Lục kỳ sĩ” (Danh sĩ kỳ tài Nguyễn Thung, Trương Mỹ Ngọc, Võ Xuân Hoài, La Xuân Kiều, Trịnh Đình Thiệp,  Cao  Tắc  Tựu),  Tây  Sơn  “Ngũ  phụng  thư” (Các nữ võ tướng lừng danh Bùi Thị Xuân, Nguyễn Thị Dung, Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Huỳnh Thị Cúc) và đời nay có “Bàn thành tứ hữu” (Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn)…

Festival Quốc tế võ thuật Bình Định 2010

Riêng vùng đất “Tây Sơn trung đạo”, trong đó có huyện Tây Sơn ngày nay, không chỉ là trung tâm của cuộc  đại  hội  tụ lịch sử, là vùng  đất  “Địa linh  nhân  kiệt”,  mà  còn  là “chiếc  nôi”  của  võ  cổ truyền Bình Định. Nơi đây, không những sản sinh các anh hùng dân tộc đại võ công, các võ tướng, võ quan kiệt xuất, các danh sĩ uyên bác, các võ sư vang  bóng một  thời,  như:  Tây  Sơn  tam  kiệt,  Võ văn Dũng, Diệp Đình Tòng (thầy dạy võ công cho Trần Quang Diệu), Trần Quang Diệu, Trần Nha, Lý Văn  Bưu  (biệt  danh  “con  Beo  bay trong ây”), Nguyễn Thị Dũ (người truyền dạy kiếm pháp cho Bùi Thị Xuân), Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn, Trương Mỹ Ngọc, Lê Quí Cảnh, Võ Đình Tú, Nguyễn Đình Tứ, Võ Xuân Hoài, Nguyễn Văn Tứ, Đặng Đức Tuấn, Mai Xuân Thưởng, Huỳnh Ngạc, Nguyễn Hoá, Bùi Điền,  Lê  Tuyên,  Phạm  Toản,  Cha  Hồ,  Chú  Nhẫn… mà  còn  hình  thành  các  địa  danh,  làng  võ,  môn phái võ lừng danh trong thiên hạ, tiêu biểu có An Vinh (Các danh sư Nguyễn Ngạt, Đinh Hề, Hai Tửu, Bốn  Mỹ,  Sáu  Hà,  Bảy  Lụt,  Chín  Giác,  Cai  Quên, Khiển Phạm, Năm Nghĩa, Hương Kiểm Cáo, Đội Sẻ, Ba Thông, Tuần Sửu, bà Tám Cảng, Nguyễn Tiếp, Nguyễn Thiếp, Trần Dần…), Thuận Truyền (Có danh sư Hồ Triêm, Lê Thị Quỳnh Hà, võ sư huyền thoại Hồ Ngạnh (Hồ Nhu), Xã Trấp, Hồ Cường, Xã Thọ, Bộ  Nung,  Huỳnh  Xuyến,  Dư  Đính,  Hồ  Tuyền,  Lê Thành Phiên, Nguyễn Song Bá, Hồ Sừng, Hồ Sơn Kỳ…), Tây Giang (Ngoài đại danh sư Hồ Thôi, biệt danh  Mười  Hổ,  đã  tiêu  diệt hàng  đàn  Hổ  dữ,  cứu giúp  dân  làng  ở  vùng  Tiên Thuận,  là  sư  phụ  của nhiều  anh  hào  đất  Tây  Sơn,  còn  có  các  danh  sư Mười Kinh, Cả Thấn, Lê Xuân Quang, Thành Châu, Phạm  Tiên,  Trương  Cử,  Dư  Giao,  Nguyễn  Nhôn, Đặng Minh Xuân, Nguyễn Uyên, Phi Long…), Bình Nghi có danh sư Phan Thọ, các võ sư Phan Thanh Sơn, Phan Hữu Đức…, Bình An có danh sư guyễn Trá, Đặng Vĩnh Nghê… cùng các thế hệ người dân Tây  Sơn,  góp  phần  hun  đúc  nên  khí  phách  kiên trung,  tinh  thần  đấu  tranh  quật  khởi,  ý  chí  vươn lên  mãnh  liệt trong  cuộc  sống,  tiếp  bước  truyền thống thượng võ oai hùng của vùng đất vang dội chiến công, qua ngót gần 550 năm hình thành và phát triển. 

Đặc  biệt,  nơi  đây  còn  dệt  nên  bao  huyền thoại,  sự  tích  ẩn  chứa  nhiều  điều  kỳ  diệu,  hiếm có,  mang  đậm  dấu  ấn  lịch  sử,  trong  đó  nổi  bật về  sự  tích  Nguyễn Nhạc  được  “Ngọc  Hoàng  trao Ấn,  Kiếm”  ở  núi  Trưng  Sơn,  sự  tích  về  câu  Thiệu võ  “Tẩu  độc  Thố,  Trưng  Sơn  hoành  gián  kiếm” trong bài “Roi Tái Sơn” (Hòn Trưng Sơn nằm ở phía Tây huyện Tây Sơn), sự tích bà Chúa Sứ và nữ võ tướng Bùi Thị Xuân thuần dưỡng, luyện Voi chiến, giai thoại về “Cha Hồ, Chú Nhẫn” và các tráng sĩ đả Hổ đất Tây Sơn, huyền thoại về Thành Uất Trì (Thành này được vua Chămpa xây dựng vào giữa cuối thế kỷ XV, trên đỉnh núi thượng nguồn Hầm Hô, để án ngữ cả vùng Tây Nguyên và ngăn chặn sự  tấn  công  từ  bên  kia  núi Thạch  Bi),  sau  này  bị hoang  phế,  không  người  lui  tới.  Chàng  Lía  đã  sử dụng làm “Đại bản doanh” để các hảo hán, nghĩa sĩ trú ngụ, cất chứa “chiến lợi phẩm” và đêm đêm đi “ăn cướp” của bọn cường hào, ác bá, phú hộ gian ác chia cho dân nghèo. Ở đây còn có sự khác biệt giữa bộ “Võ trống trận Tây Sơn, hay còn gọi “Võ Nhạc Tây Sơn” gồm 24 trống trước đây, với “Nhạc Võ  Tây  Sơn”  hiện  nay,  về  tuyệt  kỹ  võ  công  của “Roi  Thuận  Truyền”,  của  “Quyền  An  Vinh”,  về  bí quyết của ngọn Roi “đánh nghịch” (lấy nghịch chế thuận),  của  đường  Roi  “cộng  lực”,  của  phách  Roi “Tề mi”, Roi chiến hay còn gọi Roi trận...

Từ những chiến công oai hùng, những mốc son chói lọi cùng những huyền thoại và sự tích lẫy lừng của vùng đất đầy ắp bao sự kiện và chứng nhân lịch sử, càng làm cho hào khí  Tây  Sơn  toả sáng  khắp  muôn  phương,  trở  thành  niềm tự hào của các thế hệ người dân Tây Sơn, viết tiếp trang sử vàng rực rỡ về vùng đất thượng võ, nhân văn, thắm đượm tình người này.

Nguồn: Người Tây Sơn 2011


Chia sẻ với bạn bè

Bình luận: