Nhạc võ tây sơn

Đăng bởi Admin vào lúc 04-05-2018

"Ai về Bình Định mà coi Con gái Bình Định cầm roi đi quyền" Không biết từ lúc nào, câu ca dao đó đã đi vào lòng tôi.Và hôm nay dưới tán me già của Bảo tàng Quang Trung, tôi đang nghe tiếng trống trận dập dồn và ào ào nhịp bước hành quân thần tốc.

TỪ VĂN MINH TRỐNG ÐỒNG 
Bộ môn văn hóa này, theo dân thoại Bình Ðịnh gọi là “Nhạc Võ Tây Sơn” và theo nhạc pháp gọi là “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”. Ai cũng biết, sắc thái đặc biệt trong nền văn hóa cổ xưa của người Việt nổi bật hơn cả là việc dùng trống. Những cuộc khai quật đã đem đến cho các nhà khảo cổ cái trống đồng mà đặc trưng hơn cả là “trống đồng Ngọc Lũ” là chứng cớ đặc biệt của nền văn minh Việt. 

Tiếng trống từ xưa đến nay đối với dân tộc Việt Nam vẫn là hiệu lệnh để thi hành công việc tập đoàn, để báo hiệu một công  việc  có  quan  hệ  chung,  trống  ra  quân, trống  ngũ  liên, trống  thu  không,  trống  cầm  canh...  thường  ở  đình  làng  nào cũng có cái trống lớn để báo hiệu, trước khi là một công việc nghệ thuật từ trống chầu đến cầm chầu cho con hát. Vậy ụng ý của trống đồng là đại biểu uy lực của thủ lãnh quần chúng, ban hành mệnh lệnh để rồi trở nên huy hiệu của mệnh lệnh và trở nên thiêng liêng. 

Vì vậy, ta có thể nói rằng việc chế tạo và sử dụng trống là sắc thái đặc biệt của văn hoá Việt Nam, và không có chi lạ khi ta biết rằng trong thời Tây Sơn (1788-1802) sắc thái đặc biệt ấy của văn hóa dân tộc được Tây Sơn tam kiệt khai thác đến triệt để, thì nghệ thuật trống võ cũng đã đến tuyệt đỉnh.

ÐẾN NHẠC VÕ TÂY SƠN 
Nhạc  khí  căn  bản  của  nhạc  võ  Tây  Sơn  là  một  dàn  trống do quân Tây Sơn dùng khi thao diễn quân sĩ tại võ trường, khi xuất  quân  cho  khí  thế  thêm  mạnh  mẽ,  khi  thúc  quân  lướt  tới trận mạc cho mau lẹ, khi cần hành quân tiến thối nhịp nhàng, khi hãm thành cho uy thế thêm mãnh liệt, hoặc là khi khải hoàn mà reo mừng thắng trận. 

Bộ trống đúng theo kinh điển gồm 12 cái, mỗi cái mang tên một con giáp của thập nhị chi: tí, sửu, dần,  mẹo,  thìn...  và  khi  học  nhạc  thì  tên  các  con giáp này cũng là tên các cung bậc do tiếng trống phát ra. Ðường kính mỗi trống lớn, nhỏ khác nhau, da bịt trống thì căng chùng, thẳng cũng khác nhau nên tiếng trống cao thấp khác nhau.

NGHỆ THUẬT ÐÁNH TRỐNG 
Khi đánh trống thì nghệ sĩ dùng roi trống (dùi trống), có khi bỏ cả roi trống mà chỉ dùng những ngón  tay,  dùng  bàn  tay,  dùng  nắm  tay,  dùng  cùi chỏ...  nghĩa  là  dùng  đủ  cả  bộ  phận  của  hai  tay. Trường hợp dùng roi trống thì cứ mỗi nhịp điệu cử động của ta là ta có thể nghe được bốn âm thanh phát  ra:  nơi  đầu  roi  trống  (1),  kéo  sang  đuôi  roi trống (2), hạ cùi chỏ xuống (3), và bật ngửa nắm tay vào mặt trống (4). Cứ như thế mà hai tay của nghệ sĩ nhảy múa trên 12 cái trống khi lơi lả nhẹ nhàng, khi dồn dập gấp rút, khi phấn khởi khoan thai. Chỉ có hai cái tay mà đánh cả một dàn trống 12  cái  nên  nhạc  pháp  gọi  là  “Song  Thủ  Ðả  Thập Nhị Cổ”. 

Tuy nhiên, trong trường hợp mà nghệ sĩ vượt khỏi  tầm  kinh  điển  đến  bậc  siêu  thặng  thì  ngoài 12 cái trống đặt ngay trước mặt để cho hai tay sử dụng theo đúng nhạc pháp Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ, hãy còn đặt thêm 5 cái trống khác ở phía sau: một  cái  đặt  ngang  nơi  đầu  để  đầu  ngả  ngửa  húc vào, hai cái đặt ngay hai bên hông cho hai cùi chỏ thúc  vào  và  còn  hai  cái  nữa  thì  đặt  cho  vừa  tầm hai gót chân để đá hậu vào, vị chi là 17 cái trống. Nghệ  sĩ  “chơi”  nổi  17  cái  trống  (ông  Tám  Ngang) thì không còn nữa, mà trước đây chỉ còn có nghệ sĩ chơi được 12 trống mà thôi. Tuy nhiên, khi nghe xem thì vẫn thấy là siêu việt. 

Trước  khi  chơi,  nghệ  sĩ  đi  một  đường  quyền, bái tổ rồi mới bắt đầu đánh trống và các bản nhạc lần lượt nổi lên. Nghệ sĩ, điệu bộ hùng dũng, công lực dồn lên nét mặt, trổ ra hai tay dồn dập bên 12 cái  trống  xem  như  một  nghệ  sĩ  đang  múa  đường quyền bên 12 cái trống kiểu lăng ba vi bộ nên mới gọi là nhạc võ. Nghệ sĩ chơi bộ môn này cần phải biết  võ  thuật  và  khiếu  thẩm  âm  để  sự  biệu  diễn tăng thêm phần ngoạn mục.

Thu Sương biểu diễn trống võ cùng các nghệ sĩ Đội TTVH tỉnh đội Bình Định

NGHỆ THUẬT MỘT THỜI BỊ MAI MỘT 
Trước  đây,  có  một  thời  không  nghe  ai  nhắc đến  “Nhạc  Võ  Tây  Sơn”  là  vì  một  lẽ  dễ  hiểu.  Khi nhà Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn Gia Long chiến thắng, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn tru di đến nỗi mộ  phần  của  các  Ngài  cũng  bị  quật  lên,  nghiền xương  tán  nhỏ  làm  thuốc  súng  bắn  xuống  biển, các  tôi  trung  nhà  Tây  Sơn  đều  phải  mai  danh  ẩn tích.  Những  cái  hay  của  nhà  Tây  Sơn  cũng  phải dấu đi kẻo để lộ cho người khác biết được đi báo thì sẽ bị tù đày. Do đó mà di tích nhà Tây Sơn đều bị phá bỏ hết. Ðồng bào Bình Khê thương nhớ ba Ngài lén lập đền thờ mà bề ngoài cũng phải ngụy trang là miếu thờ thần. Ai có thương nhớ giữ được cái  gì  hay  của  Ba  Ngài  thì  để  bụng  chẳng  dám phô trương vì sợ chính quyền nhà Nguyễn mà hay được thì không tránh khỏi hậu quả khốc hại. Nhạc võ Tây Sơn cũng cùng chung cái số phận này. 

Thi sĩ Quách Tấn cho biết: Ngày xưa, môn võ thuật Bình Ðịnh chia làm 4 bộ môn: côn, quyền, kiếm, cổ (trống) chứ không phải kích. 

Về môn Cổ thì võ sinh thường treo lủng lẳng ngay hàng, hàng năm, muời cái trống (loại trống chầu hát bội) để tập võ. Võ sinh sẽ đánh, đá vào cá  cái  trống  ấy.  Trống  bị  sức  mạnh  đánh,  đá  sẽ văng ra xa và nhờ dây treo thối ngược lại. Lối tập võ bằng trống này, một là để tạo những cú đánh (đấm), đá mạnh, nặng cân hơn; hai là để tập sự nhanh nhẹn chống đỡ, tránh né. Nếu ai không tinh mắt lẹ tay thì chắc chắn sẽ bị trống thối ngược lại đập gây thương tích.

Về sau, dường như con người mỗi ngày một yếu dần nên không còn ai dám tập võ bằng trống nữa mà tập bằng những bao đựng cát hoặc bằng bưởi, bòng... Từ đó, danh từ tập võ bằng trống ít ai nhắc tới, dần dà rồi mai một. Có  người  bảo  Nhạc  Võ  Tây  Sơn  là  biến  thể của lối tập võ bằng trống này. Ðiều đó không lấy gì làm chắc. Nhưng nếu quả vậy thì nhà Tây Sơn thật  là  kỳ  tài  đã  khéo  khai  thác  từ  bộ  môn  võ thuật chuyển sang bộ môn âm nhạc, rồi lại dùng âm nhạc mà giáo dục võ thuật, gây không khí hào hứng trong quần chúng, kích động lòng hăng say chiến đấu của các chiến sĩ bằng tiếng trống. 

Ngày nay, tại Campuchia, người ta cũng dùng trống để tập võ. Trên võ đài Miên mà thiếu tiếng trống thì võ sinh không tài nào biểu diễn được.

NHỮNG NGƯỜI GIỮ TRUYỀN THỐNG
Khi thực dân bị lật đổ, nhà Nguyễn tàn theo thì chỉ có hai người, một ở Bình Khê (nay là Tây Sơn)  và  một  ở  Tuy  Phước,  tỉnh  Bình  Ðịnh,  còn giữ  được  cái  chân  truyền  ấy  và  xem  như  quốc bảo. Người ở Bình Khê là ông Tám Ngang, ông là người sử dụng được 17 cái trống, ông đem dạy lại cho ba người: hai đứa con trai ông và một người học  trò.  Người  con  trai  đầu  chết,  người  thứ  hai thì năm 1954 ở trong đoàn văn công của tập kết ra  Bắc,  còn  lại  người  học  trò  kia  là  nghệ  sĩ  Tân Phong (tức Nguyễn Phong). 

Người  ở  Tuy  Phước  tên  là  ông  Bầu  Thơm (tức  Võ  Ðôn)  là  một  ông  bầu  hát  bội  và  cũng  là một  nhạc  sư  về  loại  nhạc  hát  bội,  ông  dạy  lại một người học trò đó là nghệ sĩ Mười Thông (tức Hoàng Thông) là một nghệ sĩ hát bội và một roi trống hát bội có hạng. 

Hai  ông  thầy  vì  tuổi  già  đã  qui  tiên  còn  lại hai  người  học  trò  trên  kia,  tuy  không  phải  bậc siêu đẳng đánh nổi 17 trống, song cũng học được đúng truyền thống của nhạc pháp “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”. Trước năm 1975, ở Phù cát có anh Nguyễn  Việt  cũng  tập  đánh  được  12  trống  và  ở Bình Khê có hai em bé gái (một em 7 tuồi, và một em 12 tuổi) do đoàn Ca Võ Nhạc Tây Sơn đào tạo cũng  tập  đánh  được  5  trống  (ngũ  âm)  xem  rất ngộ.

Mỹ Nữ đang biểu diễn trống võ

GIÓNG TRỐNG KHẮP NƠI
Ngày  8-11-1967,  Hội  Văn  Hoá  Bình  Dân  Sài Gòn  mời  anh  Tân  Phong  trình  diễn  tại  trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ tại Sải Gòn nhân có buổi lễ của cơ quan UNESCO tổ chức tại trường này. 

Ngày  11  và  12-1-1968,  trình  diễn  tại  rạp Thống  Nhất  Sài  Gòn  và  sân  Tinh  Võ  Chợ  Lớn do ban Quản Trị Ðiện Tây Sơn Bình Khê tổ chức dưới sự giúp đỡ của Hội Ðức Trí Thể Dục SAMIPIC (Société  pour  l’Amélioration  Moral  Intellectuelle et  Physique  des  Indochinois  de  Cochinchine)  và đoàn thể Vovinam. 

Ngày  16-8-1969,  trình  diễn  tại  Trung  Tâm Văn Hoá Bình Ðịnh tại Qui Nhơn nhân ngày khánh thành Trung Tâm này. 

Ngày 15-3-1970, được phái đoàn điện ảnh thu hình và đã trình chiếu trên màn ảnh truyền hình Việt  Nam  vào  đêm  25-4-1970  tại  Sài  Gòn  và  tại Cần Thơ, Qui Nhơn, Huế vào các đêm kế tiếp. 

Ngày 18-6-1970, được phái đoàn Ðiện ảnh Bộ Thông Tin thu hình làm phim tài liệu và sẽ trình chiếu trên các màn ảnh ciné và truyền hình. 

Ngoài ra, hàng năm vào ngày mồng 5 Tết tại điện Tây Sơn Bình Khê, tiếng trống kích cảm của môn  Nhạc  võ  Tây  Sơn  đã  vang  lên  mở  đầu  cho chương trình tế lễ vua Quang Trung và lễ hội Tết Đống  Ða,  kỷ  niệm  trận  chiến  thắng  quân  Thanh oanh liệt nhất trong lịch sử của vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào mùa xuân năm 2009. 

BÀI BẢN NHẠC VÕ
Vì  mang  danh  là  nhạc  võ  nên  bài  bản  phần nhiều cũng mang tính chất quân sự như bài: Khai Trường, Xuất Quân, Hành Quân, Hãm Thành, Khải Hoàn. 

Nhạc võ Tây Sơn, muốn biểu diễn đúng theo truyền  thống  và  xem  cho  đẹp  mắt  thì  trước  hết, đi đầu là bộ phận của chiêng, trống, có quân hầu, lọng che; theo sau là hai toán quân (mặc áo cạp nẹp, chân quấn vòng ve, đầu đội nón dấu, tay cầm đao,  kiếm,  côn...)  rồi  đến  giàn  Nhạc  Võ  đặt  trên một chiếc xe đẩy (Nhạc trưởng đứng giữa, hai bên là  bốn  nhạc  công:  đờn,  kèn,  chập  chõa,  mõ  phụ họa); sau rốt là vị tướng chỉ huy lẫm liệt trên mình voi hoặc ngựa.

Bắt đầu biểu diễn, vị tướng kêu gọi: 
Ngoài biên thùy quân thù xâm lấn 
Trong nội tình đất nước lâm nguy 
Phận làm trai sinh tử nẹ chi 
Quyết một dạ lên đường cứu quốc! 
Nhạc trưởng tiếp theo 
Anh em ơi! 
(Toàn thể nhạc công) “Dạ” 
Lệnh trên đà ban xuống 
Phận dưới phải thi hành 
Dùng kế mưu kích cổ đa thanh 
Ðịch lầm tưởng hùng binh vạn đội
 
Ðằng trước khởi chinh cổ, giàn nhạc võ nổi lên và lần lượt theo các bài bản do vị tướng chỉ huy.

1- Bài Khai Trường

Biểu diễn Trống võ trong Festival Quốc tế võ thuật Bình Định 2010

Bài Khai Trường chỉ dùng để luyện tập quân sĩ hay chào mừng các vị tướng chỉ huy khi cần đến diễn võ trường. Ðiệu nhạc khoan thai, hùng dũng. Thuở xưa, mỗi dịp có vị Hoàng đế hay vị Nguyên soái đến diễn võ trường để mở một cuộc diễn võ, tập võ hay là chọn tướng sĩ thì khi vị ấy bước vào võ trường, mỗi xứ có một điệu nhạc riêng để chào mừng nhà lãnh đạo. Riêng đối với quân Tây Sơn, điệu  nhạc  đó  là  ba  hồi  trống  khai  trường.  Nhạc hát bội thường chỉ có hai cái trống căn bản gọi là “trống âm” và “trống dương” hay “trống quân” và “trống chiến”. Nếu người ta biết rằng hát bội ngày nay  là  do  cụ  Ðào  Tấn  ở  Bình  Ðịnh  lập  thành  qui chế,  thì  phép  đánh  trống  của  hát  bội  cũng  đánh nhái theo điệu Khai Trường của Nhạc Võ Tây Sơn. 

Trống Khai Trường của hát bội phải đánh đúng ba  sách,  mỗi  sách  tám  phách.  Khi  đánh  đúng  24 phách, nhạc sĩ mở ra thành trống chiến và chờ cho trống quân gióng giáp ba hồi lại 9 tiếng thì người trống  chiến  phải  thét  theo.  Khi  thét  xong,  nghĩa là  khai  trường  xong  thì  nhạc  sĩ  mở  trống  ra  cho nghệ sĩ ra sân khấu. Lúc đó thì người hát hát, nam, khách hay xuân... thì người đánh trống phải đánh theo thứ ấy. Nhưng thường người đánh trống chỉ được quyền đánh khi người nghệ sĩ trên sân khấu đã “thủ” và “vĩ”. Nếu người đánh trống tự ý đánh theo, gọi là đánh nhái. 

Nói về bài bản của nhạc hát bội thì có 8 bài kể từ  bài  nhịp  một  đến  nhịp  tám  còn  âm  thanh  hay hoặc  dở  tùy  theo  người  nhạc  sĩ  bắt  già  hay  non mà thôi. 

2- Bài Xuất Quân
Xuất quân có nghĩa là đem quân đội ra chiến trường, nó có nghĩa là khởi hành và bao giờ khởi hành  thì  điệu  nhạc  phải  làm  sao  cho  tinh  thần chiến sĩ phấn khởi lên, hăng hái lên và cũng phải gây  cho  được  trong  lòng  mọi  người  một  niềm tin chiến thắng. Do đó, nhạc xuất quân của Nhạc Võ Tây Sơn theo điệu này là một điệu nhạc hùng, nhịp của nó càng nhặt làm cho tim mọi người đập càng lúc càng mau, nghe hăng hái, phấn khởi. 

3- Bài Hành Quân 
Ta  tưởng  tượng  một  đạo  quân  hùng  hậu  đã xuất  quân  trong  tình  thần  tối  cao  nhưng  mà  sau một  khúc  đường  dài  chắc  hẳn  cũng  đã  thấy  mệt mỏi. 

Trong lúc ấy vị tướng chỉ huy chỉ kêu gọi nầng cao tinh thần suông, chúng ta có cảm tưởng rằng lời kêu gọi ấy không được đáp ứng. 

Trái lại, nếu lời khuyến khích là một lời êm ái, dịu  dàng,  có  vẻ  vui  vẻ,  có  vẻ  đùa  cợt  ...  thay  vì đem lời hùng hồn thì đem lời an ủi êm ái, chắc có lẽ kết quả sẽ hay hơn.

Khi  đọc  truyện  Tàu,  chúng  ta  nhớ  lúc  Quản Di Ngô ngồi trong cũi để được đưa về nước Tề thì thấy các quân khiêng cũi hơi mệt mỏi nên Quản Di Ngô bèn đặt ra những bài ca, bài hát để cho quân sĩ đi theo nhịp bài ca mà quên mệt mỏi. 

Còn  trong  truyền  thuyết  của  Tây  Sơn,  người Bình Khê thường thuật lại rằng: Khi quân Tây Sơn đi ra Thăng Long ngày đêm không nghỉ; phải hai người gánh võng một người. Để quân ta quên mệt mỏi, vua Quang Trung mới bày ra chuyện thi đua kể  chuyện  tiếu  lâm  để  cho  quân  sĩ  hào  hứng.  Và chúng  tôi  cũng  nghĩ  rằng  không  biết  chừng  dàn trống  của  Nhạc  Võ  Tây  Sơn  lúc  ấy  lại  trổi  khúc hành quân nhằm mục đích giống như mục tiêu của việc thi đua kể chuyện tiếu lâm trên kia. 

Khúc nhạc này của Nhạc Võ Tây Sơn cũng diễn tả được cái ý nghĩ đó. Khúc nhạc này có đoạn nhạc sĩ  chỉ  đánh  thuần  bằng  tay  không,  bằng  những ngón tay, bàn tay, nắm tay và cùi chỏ nghe rất vui tai và xem đẹp mắt. 

4- Bài Hãm Thành 
Chúng ta lại tưởng tượng tiếp như đoàn quân Tây  Sơn  đã  đến  dưới  chân  thành  và  vị  tướng  chỉ huy đã ra lệnh hãm thành thì phận sự của nhạc sĩ sử  dụng  giàn  trống  là  phải  gây  cho  chiến  sĩ  một tinh thần nỗ lực tối đa để công phá thành trì hầu cướp được cho nhanh chóng. Ðiệu nhạc này nghe thật là sôi nổi, dồn dập, kích động tối đa lòng dũng cảm của mọi người. 

5- Bài Khải Hoàn 
Và sau cùng là bài Khải Hoàn. Ðiệu nhạc này dĩ nhiên âm thanh phải diễn đạt cho được sự vui mừng, phấn khởi, hò reo của người chiến thắng. Ai đã có nghe xem Nhạc Võ Tây Sơn sẽ nhận rõ  điều  đó.  Ðiệu  bộ  và  âm  thanh  hòa  nhịp  khoan,  nhặt,  khi  bổng,  khi  trầm,  khi  lơi  lả,  lúc  dồn dập thật là khó tả. Ngày xưa, “Người Việt đã nghe tiếng gọi của Trưng Trắc, Trưng Nhị mà chống lại Tô Ðịnh muốn lấy luật pháp mà trói buộc; đã mười năm gian khổ theo Lê Lợi để khỏi phải bím tóc và kết  đuôi  sam  giống  người  Minh;  đã  cùng  Nguyễn Huệ đánh trống tiến quân vào Thăng Long để đuổi đám tướng binh nhà Thanh nhiễu loạn cuộc sống của dân chúng. Và chắc chắn mãi mãi về sau này, dân tộc Việt Nam còn thì văn hóa dân tộc Việt Nam cũng vẫn có, và vẫn còn cái tinh thần bất khuất để bảo vệ nền văn hóa của dân tộc”. 

Bởi  vì  tiếng  trống  Lạc  Việt,  tiếng  trống  Tây Sơn luôn luôn mang nặng tình tự dân tộc và văn hóa  Việt  Nam  không  bao  giờ  thiếu  vắng  những tiếng trống đặc trưng đó.

Cục Bản quyền tác giả (thuộc Bộ Văn hóa, thể  thao  và  Du  lịch  (VHTTDL))  đã  cấp  giấy chứng nhận quyền tác giả và các quyền liên quan  về  nhạc  võ  cho  Sở  VHTTDL  Bình  Định. Việc ươm mầm nhạc võ vì thế, cần có nhiều sự đầu tư hơn.

Trước  đây,  vào  năm  1984,  Đội  TTVH Nghĩa  Bình  đã  mời  anh  Triều  Dâng   đào  tạo cho  Mỹ  Nữ,  để  dựng  một  tiết  mục  hòa  tấu nhạc  cụ  dân  tộc  hoành  tráng,  tham  gia  các kỳ  hội  diễn.  Sau  Mỹ  Nữ  là  Thu  Sương-  được NSƯT  Phan  Ngạn  đào  tạo  thành  một  người chuyên  biểu  diễn  Nhạc  võ  trong  các  chương trình  VNQC   của  Đội  TTVH  Bình  Định.  Năm 1984, Thu Sương đã được mời đi diễn tại Cu Ba.

Hiện tại, ở Bình Định trình diễn nhạc võ chuyên nghiệp hiện có năm người. Bảo tàng Quang Trung (huyện Tây Sơn) có hai người là cô  Nguyễn  Thị  Thuận  và  Hoàng  Mai.  Ở  Quy Nhơn,  Nhà  hát  Tuồng  Đào  Tấn  có  anh  Triều Dâng và anh Bá Dũng. Đoàn Ca Kịch Bài chòi Bình Định có anh Đinh Văn Nhân.

Nhạc võ đang được các công ty du lịch ra sức quảng bá và hơn một tháng nay, Bảo tàng  Quang  Trung  đón  rất  đông  khách  đến tham quan. Bình quân một ngày có từ 7 đến 9  đoàn  khách.  Khách  đến  Bảo  tàng,  ai  cũng muốn  xem  trình  diễn  nhạc  võ.  Anh  Nguyễn Xuân Hổ, phụ trách Đội nhạc võ của Bảo tàng Quang  Trung,  cho  biết:  “Từ  nhu  cầu  thực  tế của  Bảo  tàng,  Đội  cần  thêm  1-2  người  biết trình diễn nhạc võ. Theo tôi, tốt nhất là chọn các em học lớp 9 hay lớp 10. Sau 3 năm tập luyện,  khi  tốt  nghiệp  PTTH  thì  tay  nghề  các em đã cứng cáp. Lúc đó, Bảo tàng có thể tiếp nhận về làm việc. 

Do  chưa  có  trường  lớp  dạy  bộ  môn  này, nên cần tiến hành đào tạo tại Bảo tàng. Ngoài việc đánh trống, các em cần biết một vài động tác múa võ minh họa để tăng sự hấp dẫn khi trình diễn”.

Có một võ sư tên Hồ Bửu- là học trò của võ  sư  Diệp  Bảo  Sanh  (chưởng  môn  đời  thứ hai  của  Bình  Thái  Đạo)  và  võ  sư  Hồ  Ngạnh (Hồ Nhu). Ông sinh năm 1942 tại Quy Nhơn, lên 5 ông được cha dạy võ để phòng thân. Có một thời gian, ông vào Sài Gòn học Nhu đạo và dạy võ. Năm 1966, ông thường về quê và theo võ sư Hồ Nhu học võ đến tận năm 1974. Ông  là   Giám  đốc  Võ  đường  Tây  Sơn  -  Bình Định tại bang Virginia (Mỹ).

Không  chỉ  dạy  võ  cổ  truyền  Bình  Định  ở Mỹ, ông nỗ lực phổ biến nhạc võ Tây Sơn với võ sinh của mình. Ông tin rằng “hiểu được lịch sử, văn hóa và những nét đẹp đặc trưng của vùng Đất võ thì sẽ dễ cảm nhận được hết cái hay cái đẹp của võ Bình Định”.

Nguồn: Ngưởi Tây Sơn 2011


Chia sẻ với bạn bè

Bình luận: