Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
(HOÀNG CẦM)
Nghệ nhân làng tranh Đông Hồ |
Nghệ nhân quét điệp lên giấy gió |
Tranh dân gian Việt Nam tồn tại trên đất nước này đã hàng ngàn năm và trở thành một dòng nghệ thuật riêng biệt.
Đến hôm nay, người dân vẫn còn yêu thích, nâng niu, giữ gìn chúng như những vật phẩm quý giá. Không ít người thuộc lòng tranh gà, lợn, đánh ghen… như thuộc ca dao tục ngữ. theo thời gian, mỗi lần phiên chợ Tết họp, là có tranh dân gian. Có người ví von, nếu Tết mà thiếu sắc đỏ, xanh của tranh Đông Hồ, người ta cảm thấy như thiếu đi bánh chưng xanh, câu đối đỏ !
Nhắc đến dòng tranh này, người ta nghĩ ngay đến các làng nghề nổi tiếng như Hàng Trống, Làng Sình…, trong đó làng tranh Đông Hồ đã có mặt ít nhất từ 500 năm nay. Năm 2000, các nhà khảo cổ đã khai quật được hai tấm bia đá ở nền chùa cổ, trong đó có tấm bia khắc năm 1680. Trên bia có chạm hình mặt nguyệt và đôi chuột (nhân vật quen thuộc của tranh Đông Hồ) đang giã gạo.
Tranh Hổ hàng Trống |
Về kỹ thuật, tranh Đông Hồ dùng ván gỗ đã định hình để in. Để có được một bức tranh, người ta phải vẽ mẫu lên ván gỗ (thường là gỗ mít) và khắc theo mẫu này để có bản in. Tranh có bao nhiêu màu thì sẽ có bấy nhiêu bản. Màu được phết lên bản in và được lên giấy dó theo thứ tự: đỏ, xanh, vàng, trắng và cuối cùng là màu đen (màu bắt nét).
Sự độc đáo của tranh Đông Hồ nằm ở màu sắc đều lấy từ thiên nhiên. Giấy làm tranh vẫn là giấy dó (từ cây dó ở rừng) phủ một lớp hồ điệp và dùng chổi lá thông tạo màu trắng và độ óng ánh. Màu sắc tranh thật tươi sáng và có nguồn gốc từ thảo mộc, đá. Ví dụ như: màu đỏ lấy ở quả gấc hay vỏ cây vang, màu trắng lấy ở vỏ sò, màu vàng lấy ở hoa hòe, quả dành dành, màu xanh lấy ở lá chàm, màu nâu lấy ở đá, màu đen lấy ở than tre hoặc mực nho… Từ đó ra đời một cách gọi tên màu rất "dân gian" như đỏ cánh gián, xanh lá mạ, cổ vịt, nâu cánh kiến… Theo dòng chảy trên, tranh "đám cưới Chuột" thể hiện một đám rước gồm mười ba chú chuột đi rước dâu, cống nạp thịt, cá… cho chú mèo to lớn chắn ngang đường. Tranh toát lên sự thật về nạn nhiễu nhương, hối lộ của các quan lại trong thời phong kiến. Bố cục tranh theo phương ngang, lấy "đơn tuyến bình đồ" và "ước lệ tạo hình" làm tiêu chuẩn. Tuy nhiên, qua nét vẽ tài hoa của nghệ nhân, tranh đã đạt đến độ khái quát cao và có giá trị nghệ thuật nhất định.Tranh vẽ theo lối này không đặt nhân vật xen kẽ lên mặt phẳng, không chú ý đến quy luật viễn cận (nền tảng tạo hình châu Âu), mà chỉ tuân thủ theo nguyên tắc gần nhỏ, xa to; người có địa vị thì vẽ to hơn, người dân lao động nhỏ lại. Con mèo trong "Đám cưới chuột" chiếm một diện tích lớn là ví dụ thú vị cho điều này! Cũng có người nói quốc họa Trung Quốc đã có tranh "Chuột" với cô dâu chú rể, kẻ rước người khiêng và con mèo to đòi hối lộ. Nhưng sự giống ấy chỉ là ở mặt hình thức, vấn đề là ở nội dung, tâm hồn dân tộc và sự tung tẩy từ bàn tay tài hoa của nghệ nhân!
Tranh "Đám cưới chuột" (thực chất là "Nghè Chuột vinh quy") vẫn là tờ tranh được nhân dân Việt Nam yêu thích. Chính sự hóm hỉnh về nội dung, hình ảnh ví von gắn liền cuộc sống, kinh nghiệm chọn màu đã khiến tranh thắm đượm tâm hồn Việt và trở thành niềm tự hào của nền mỹ thuật nước nhà.
Nguồn: Người Tây Sơn 2011
Bình luận: