Khảo cứu về câu đối của sứ thần triều tây sơn: nhữ trọng thai

Đăng bởi Admin vào lúc 04-05-2018

Tôi gọi câu đối này là tác phẩm nghệ thuật ở lãnh vực ngoại giao, một tác phẩm làm nên bằng trí tuệ độc đáo và học vấn uyên thâm. Cái độc đáo, cái uyên thâm ở chỗ dường như cả câu đối 76 con chữ chỉ nói việc mừng thọ nhà vua thôi chứ không nói gì khác cả mà lại nói được tất cả.

Từ  những  năm  1977-1987,  trong  quá trình  mò  mẫm  dò  tìm  các  nguồn  tư liệu,  tài  liệu  nghiên  cứu  Đào  Tấn,  tôi may  mắn  được  ông  Mạc  Như  Tòng  ở Quy Nhơn trao cho tập tài liệu chữ Hán chép tay dày 89 trang giấy dó, bìa ngoài đề Danh liễn hợp toản (DLHT) (chữ toản còn đọc là soạn).

Sắc phong thời Tây Sơn phát hiện ở Hải Dương

Cả  tập  chép  trên  500  câu  đối  các  loại,  chia làm 4 phần:

  • Phần  1  (Giáp  tập)  gồm  những  câu  đối  nổitiếng gọi là “thông dụng”.
  • Phần 2 (Ất tập) gồm những câu đối nổi tiếng treo ở các “cung điện, từ miếu, sảnh xá”.
  • Phần 3 (Bính tập) gồm các câu đối nổi tiếng thuộc loại “khánh hạ, tặng đáp, ai vãn”.
  • Phần 4 (Đinh tập) gồm những câu đối thuộc loại “tập cổ”.

Tiếp theo các phần trên có các tiểu mục như:

  • Mai  sơn  liễn  cú  (các  câu  đối  của  Nguyễn Thượng Hiền);
  • Hà  Đình  liễn  cú  (các  câu  đối  của  Nguyễn Thuật).
  • Bích Khê liễn cú;
  • Bích Khê Hoàng nhị giáp liễn cú.
    Cuối cùng chép một ít câu đối lẻ tẻ khác.

Riêng cụ Đào Tấn được chọn trong tập DLHT 5 câu (nằm ở các số 77, 78, 87, 207, 209).

Theo  ông  Mạc  Như  Tòng  thì  đây  là  tập  bản thảo do cụ Phó bảng Đào Phan Duân sưu tầm, ông được  giữ  tập  tài  liệu  này  từ  hồi  ông  cộng  tác  với Đào công xây dựng Phước An Thương Hội, giờ đã đến dịp có thể trao lại cho tôi.

Ở phần 2 (Ất tập) tiếp sau câu đối trong chính điện  Dực  Tôn  Anh  Hoàng  Đế  (tức  vua  Tự  Đức)  là câu đối mừng thọ vua Càn Long 80 tuổi. Và đây là toàn văn câu đối ấy:

  • Long phi ngũ thập hữu ngũ niên, ngũ số hợpthiên, ngũ số hợp địa, ngũ sự tu, ngũ hành thuận, ngũ đại đồng đường, linh lung ngũ phụng lâu tiền, ngũ sắc côn hoàng huy thể thụ;
  • Thánh  thọ  bát  tuần  phùng  bát  nguyệt,  bát thiên vi xuân, bát thiên vi thu, bát nguyên tiến, bát khải đăng, bát phương hướng hóa, cổ vũ bát loan điện lý, bát tiên phiêu miểu tấu nghê thường.(Thanh, Càn Long đế bát tuần khánh tiết điện trụ liễn, bản quốc sứ thần Nhữ Trọng Thai tác).

Tạm dịch nghĩa:

  • Rồng bay năm chục lẻ năm năm, số năm hợp với trời, số năm hợp với đất, năm sự trau dồi, năm hành  xuôi  thuận,  năm  đời  chung  sống  cùng  nhà, trước lầu năm chim phụng long lanh, năm sắc đan xen chói rực cây màu lộng lẫy;
  • Lễ thọ nhà vua tám tuần vào dịp tháng tám, tám ngàn năm là mùa xuân, tám ngàn năm là mùa thu, tám nguyên hiền tài đến, tám khải kẻ sĩ chầu, tám  cõi  đổi  đời,  cổ  vũ  tám  chim  loan  trong  điện. Tám  nàng  tiên  thăm  thẳm  dâng  điệu  múa  nghê thường.
    (Câu đối treo ở trụ trong ngôi điện mừng thọ vua Càn Long nhà Thanh 80 tuổi, do sứ thần nước ta là Nhữ Trọng Thai viết).

Dù  đã  dịch  sang  Việt  văn,  dịch  sát  nghĩa, nhưng  nếu  không  giải  thích  cặn  kẽ  thì  bạn  đọc ngày nay khó mà nắm bắt được hàm nghĩa sâu xa của từng con chữ bay liệng trong tác phẩm ngoại giao này.

Vậy, trước hết chúng tôi xin giới thiệu bối cảnh lịch sử câu đối ra đời, thứ đến sẽ tìm hiểu tác giả và hàm nghĩa sâu xa từng con chữ.

Nhà Thanh là triều đại cuối cùng của lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc. Nhà Thanh tồn tại từ 1616-1911,  tổng  cộng  297  năm,  gồm  13  đời  vua. Đến  Càn  Long  là  đời  vua  thứ  7,  ở  ngôi  60  năm (1736-1796).  Năm  Càn  Long  80  tuổi  tức  là  niên hiệu Càn Long thứ 55, cũng tức là năm 1790, sau chiến  thắng  Đống  Đa  của  hoàng  đế  Quang  Trung một năm. Và mãi đến sáu năm sau Càn Long mới chịu chết.

Nguồn sử liệu của hai học giả Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng cung cấp: Tháng 3 âm lịch năm 1789 một sứ bộ Việt Nam gồm có Nguyễn Quang Hiển, Võ Huy Tấn, Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử lên đường sang Yên Kinh (bây giờ là Bắc Kinh) gặp vua Càn Long.

Phía  Việt  Nam  trao  trả  cho  nhà  Thanh  800 tù binh, phía nhà Thanh trao trả cho quân đội Tây Sơn một số cựu thần nhà Lê là bọn Nguyễn Đình Bài  cùng  với  gia  quyến  họ  gồm  khoảng  ngót  100 người. Nhân dịp này vua Càn Long yêu cầu Nguyễn Huệ -  lãnh tụ Tây Sơn năm 1790 sang  thăm Càn Long nhân dịp lễ mừng thọ nhà vua 80 tuổi. Sứ bộ Việt Nam nhận lời. Cuối tháng 7 âm lịch năm 1789 vua Càn Long ký chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam  quốc  vương.  Tháng  11  âm  lịch  năm  ấy  vua Càn Long cử sứ bộ mang chiếu phong vương sang Thăng  Long,  Ngô  Thời  Nhiệm  cho  người  giả  làm Nguyễn Huệ đứng ra nhận chiếu phong vương.

Sách  Hoàng  Lê  nhất  thống  chí  (HLNTC)  của Ngô  gia  văn  phái  nói:  đầu  năm  1790  Ngô  Thời Nhiệm chọn một võ tướng là Nguyễn Quang Thực, người  làng  Mạc  Điền,  huyện  Nam  Đường,  Trấn Nghệ An giả làm quốc vương Nguyễn Huệ (về điều này sách Đại nam chính biên liệt truyện (sơ tập) là bộ sách ra đời sau HLNTC lại nói rằng Nguyễn Huệ giả là Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu, nhưng không nói chi tiết có thể tin cậy) cầm đầu phái bộ gồm 150 người, trong đó có ban hát 10 người, sang giao hiếu với nhà Thanh. Ngày 29 tháng Giêng âm lịch năm 1790 phái bộ lên đường (theo  Dụ  Am  thi  văn  tập  của  Phan  Huy  Ích).  Và ngày 29 tháng 11 âm lịch năm 1790 phái bộ về tới Thăng Long.

Thế là đã rõ, trong phái bộ 150 người do vua Quang  Trung  giả  dẫn  đầu  sang  Yên  Kinh  năm  ấy có vị sứ thần Nhữ Trọng Thai, tác giả câu đối trên. Vậy hành trang của vị sứ thần tài hoa này như thế nào? Đó là điều tôi muốn tìm biết hơn 10 năm qua. May sao mới đây, ông bạn già, nhà sử học thứ thiệt - Đỗ Văn Ninh từ Hà Nội gửi biếu tôi món quà quí: các tài liệu về nhân thân sứ thần Nhữ Trọng Thai.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên quyển XXXIX, trang 541-542 chép: Nhữ Trọng Thai người xã Hoạch Trạch, huyện Đường An (nay thuộc Hải Dương) đỗ Thám hoa khoa Quí Sửu (1733) năm Long Đức (triều Lê Thuần Tông).

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn

Lúc  bấy  giờ  có  giặc  Nguyễn  Tuyển  nổi  dậy, "triều đình sai Đặng Đình Luận làm đốc lãnh thượng đạo Hải Dương, Trần Trọng Liêu và Nhữ Trọng Thai giữ chức hiệp đồng đem quân đi đánh dẹp". Đình Luận tiến quân đóng ở Đông Triều "Tuyển sai người xin hàng, Đình Luận tin lời, không phòng bị; đêm đến  Tuyển  đánh  úp  doanh  trại,  Đình  Luận,  Trọng Liêu, Trọng Thai đều bị bắt. Tuyển  cho  ở  riêng  một  chỗ,  sau  đó  Tuyển  bị thua,  bọn  Đình  Luận  trốn  về  đều  bị  lột  hết  quan chức và tước phẩm". 

Có lẽ vì thế mà khi Quang Trung kéo quân ra Bắc  Hà,  Nhữ  Trọng  Thai  gia  nhập  vào  hàng  ngũ nghĩa quân Tây Sơn không chút do dự, Nhữ Trọng Thai  trở  thành  nhân  sĩ  đắc  lực  giúp  nhà  Tây  Sơn như Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích… và được chọn tham  gia  phái  bộ  ngoại  giao  sang  Yên  Kinh  năm 1790.  Hồi  ấy  Nhữ  Trọng  Thai  cũng  đã  thuộc  diện lão thần cỡ tuổi 70 hơn…

Như  trên  tôi  vừa  giới  thiệu:  Lễ  thọ  vua  Càn Long 80 tuổi tiến hành vào tháng 8. Năm vua Càn Long 80 tuổi cũng là năm nhà vua ở ngôi 55 năm, cho nên tác giả Nhữ Trọng Thai đã chọn hai con số: số 5 và số 8 làm điểm tựa, tạo nên sức sống trong cảm hứng nghệ thuật của câu đối mừng thọ:

"Rồng bay năm chục lẻ năm năm", mở đầu vế I câu đối tác giả ca ngợi thời gian ở ngôi của nhà vua lâu bền. Rồi luận về con số 5 hợp với trời, đất, hợp với qui luật vận động của tạo hóa, tác giả căn cứ vào triết lý của Dịch học. 

Tiếp  đến  "năm  sự  trau  dồi,  năm  hành  xuôi thuận" thì hàm nghĩa từng con chữ thật không dễ hiểu.

Thiên  Hồng  Phạm  sách  Kinh  thư  giải  thích "năm sự" gồm có: 1- Mạo (hình dáng); 2- Ngôn (nói năng); 3- Thị (xem xét); 4- Thính (nghe ngóng); 5- Tư (suy nghĩ). 

Năm  trạng  thái  ấy  của  con  người  cần  được luôn trau dồi mới trở thành chính nhân quân tử. Và sự tồn tại của năm chất: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ trong  “năm  hành”  (ngũ  hành)  luôn  có  sự  đối  đầu tượng  xung,  tương  chế,  như  hỏa  luôn  luôn  khắc với  thủy  chẳng  hạn…  nếu  biết  tương  chế  không để cho các chất ấy nằm ở vị trí đối đầu xung khắc là  "thuận",  cuộc  sống  sẽ  yên  lành.  Còn  ở  vế  đối II, tác giả viết "tám ngàn năm là mùa xuân, tám ngàn năm là mùa thu" vốn bắt nguồn từ điển cố: Thiên  Tiêu  diêu  du  sách  Nam  Hoa  Kinh  Trang  Tử nói rằng: 

"Thời xa xưa có cái xuân lớn, tám ngàn năm là mùa xuân, tám ngàn năm là mùa thu". 

Ca ngợi sự sống lâu của nhà vua đến như vậy thì ai mà không hả lòng hả dạ. Vâng, sống lâu là chuyện  đáng  mừng,  nhưng  sống  như  thế  nào  ấy mới  là  điều  đáng  nói,  tác  giả  viết:  "Tám  nguyên hiền tài đến, tám khải kẻ sĩ chầu" vốn bắt nguồn từ điển cố như thế này… Sách Từ Hải giải thích: Tám nguyên là kẻ sĩ tài đức ngày xưa. Nguyên có nghĩa là  thiện,  nói  lời  hiền  lành  trong  mọi  trường  hợp. Sách  Tả  truyện  chép:  Thời  vua  Văn  Vương  năm thứ 18 (nhà Chu) họ Cao Tân có tám người tài giỏi, người  trong  thiên  hạ  đều  gọi  đó  là  "bát  nguyên" (tám nguyên). Còn tám khải cũng là kẻ sĩ tài đức thời xưa. Khải có nghĩa là hòa nhã, hành động hòa nhã với mọi sự vật. Cũng sách Tả truyện chép: thời vua Văn Vương năm thứ 18, họ Cao Dương có tám người tài giỏi, người trong thiên hạ gọi đó là "bát khải" (tám khải).

Có tuổi thọ sống lâu, có nhân tài quy tụ chầu hầu thì ắt làm cho "tám cõi đổi đời" mọi người no ấm,  cuộc  sống  yên  vui  thái  bình.  Ấy  mới  là  nhân tố quyết định tác động đến cuộc sống trong cung điện  nhà  vua,  "tám  nàng  tiên  thăm  thẳm  dâng điệu múa nghê thường".

Tôi gọi câu đối này là tác phẩm nghệ thuật ở lãnh vực ngoại giao, một tác phẩm làm nên bằng trí tuệ độc đáo và học vấn uyên thâm. Cái độc đáo, cái uyên thâm ở chỗ dường như cả câu đối 76 con chữ chỉ nói việc mừng thọ nhà vua thôi chứ không nói gì khác cả mà lại nói được tất cả!

Nguồn: Người Tây Sơn 2011


Chia sẻ với bạn bè

Bình luận: